Những Doanh Nhân Nổi Tiếng Của Mỹ

Những Doanh Nhân Nổi Tiếng Của Mỹ

Là những CEO nổi tiếng, đại diện cho thế hệ doanh nhân Việt Nam thời kỳ hội nhập, dù cách thức khởi sự kinh doanh và phát triển doanh nghiệp có khác nhau nhưng họ đều là những “người hùng” mang đến thành công cho các doanh nghiệp.  Chặng đường dài có lúc khó khăn, có lúc thất bại, nhưng họ có khát vọng, sự dấn thân, sáng tạo và niềm tin sắt đá vào mục tiêu đã lựa chọn.

Là những CEO nổi tiếng, đại diện cho thế hệ doanh nhân Việt Nam thời kỳ hội nhập, dù cách thức khởi sự kinh doanh và phát triển doanh nghiệp có khác nhau nhưng họ đều là những “người hùng” mang đến thành công cho các doanh nghiệp.  Chặng đường dài có lúc khó khăn, có lúc thất bại, nhưng họ có khát vọng, sự dấn thân, sáng tạo và niềm tin sắt đá vào mục tiêu đã lựa chọn.

Trương Gia Bình và FPT là “câu chuyện lớn nhất cuộc đời tôi”

Trương Gia Bình là CEO nổi tiếng trong giới doanh nhân không chỉ bằng kinh nghiệm sáng lập và điều hành một trong những tập đoàn hàng đầu Việt Nam về công nghệ thông tin, truyền thông – FPT mà còn bởi “Tư duy người chủ” giúp doanh nghiệp tiếp cận với sự phát triển bền vững.

Cách thức quản trị của ông là tìm ra được những nhân viên có tư duy người chủ, tức là họ thấu hiểu và đồng cảm với sứ mệnh công ty, có chung mối quan tâm và không rời xa khách hàng, từ đó tạo ra những nhóm nhân viên, chuyên viên đồng nhất. Cơ chế kiểm soát mà CEO Trương Gia Bình xây dựng tại FPT tạo ra sự thoải mái, trao quyền song song với kiểm soát linh hoạt, thông minh. Nơi được trao quyền nhiều nhất chính là bộ phận tiếp xúc với khách hàng nhiều nhất.

Không chỉ nổi tiếng là nhà điều hành bản lĩnh của tập đoàn FPT, Trương Gia Bình còn là một trong số ít CEO nổi tiếng của các doanh nghiệp lớn tại Việt Nam thường xuyên có những buổi hội thảo, trao đổi với doanh nhân trẻ. Tại các diễn đàn, ông chia sẻ FPT là câu chuyện lớn nhất cuộc đời mình và bí quyết dẫn dắt FPT đến thành công như hôm nay chính là không bao giờ xa rời khách hàng, tập trung nghiên cứu chính sách chăm sóc khách hàng, hoạt động bán hàng của đối thủ để có sự thay đổi tốt hơn cho chiến lược kinh doanh và chăm có khách hàng của mình.

Mai Kiều Liên – bông hồng vàng thuộc top 50 nữ doanh nhân quyền lực nhất Châu Á

Có thể nhìn thấy rõ cá tính của một nhà điều hành giỏi qua những sản phẩm, giá trị họ kiến tạo nên cũng như những thành công họ xây dựng được. Điều này hoàn toàn đúng đối với nữ CEO nổi tiếng Mai Kiều Liên khi nhìn vào Vinamilk. Với sự quyết đoán và tư duy cấp tiến, bà đặt trọng tâm vào phát huy giá trị nội lực để cạnh tranh và áp dụng mô hình liên kết để tạo sức mạnh cộng hưởng cùng thắng. Chính quan điểm này đã giúp Mai Kiều Liên mạnh dạn thiết lập mối quan hệ hợp tác với các đối tác nước ngoài, và chiến lược này đã giúp Vinamilk trụ vững trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và vươn mình khẳng định ngôi vương trong thị trường ngành sữa.

Trong quá trình dẫn dắt, điều hành của mình, CEO Mai Kiều Liên xác định yếu tố mang tính sống còn của công ty chính là sự sáng tạo. Bà không ngừng yêu cầu, cũng như tạo sự thúc đẩy để đội ngũ nhân viên Vinamilk nỗ lực tìm kiếm, tạo ra những cái mới, không đi theo lối mòn, không chạy theo đám đông và thậm chí có lúc đi ngược với xu hướng. Đến nay, 90 ý tưởng mới của Vinamilk xuất phát từ nữ tướng Mai Kiều Liên. Bà đã khai sinh ra việc sản xuất theo phương pháp công nghiệp các mặt hàng sữa chua, sữa bột trẻ em, phô mai, nước ép trái cây… giúp công ty nhanh chóng xâm nhập và dẫn đầu thị trường.

Được tôn vinh là 1 trong 50 nữ doanh nhân quyền lực nhất Châu Á vào các năm 2012, giới doanh nhân đánh giá cao sự chủ động, hết mình vì công việc và các chiến lược quyết liệt của bà để giúp Vinamilk tạo nguồn nguyên liệu không phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. CEO Mai Kiều Liên đã góp công lớn trong việc phát triển thành công hệ thống trang trại và đàn bò riêng biệt, đạt tiêu chuẩn quốc tế, giúp Vinamilk có những bước tiến mạnh mẽ, vững chắc ở thị trường trong nước và nước ngoài.

Phạm Thị Việt Nga – nữ CEO của thời đại mới

Cũng như Mai Kiều Liên, Phạm Thị Việt Nga là 1 trong những người phụ nữ hiếm hoi của Việt Nam được vinh danh là doanh nhân quyền lực nhất Châu Á. Bà được biết đến như một người phụ nữ quyết liệt và cứng rắn, đã chèo lái thành công con thuyền của Công ty Dược Hậu Giang từng bước vượt qua khủng hoảng và đứng vững trên thị trường trong nước và quốc tế.

Kể từ khi gia nhập Công ty Dược Hậu Giang vào năm 1988, nữ CEO nổi tiếng Phạm Thi Việt Nga đã biến một xí nghiệp bên bờ vực phá sản thành công ty dược lớn nhất sàn chứng khoán Việt Nam, giúp Dược Hậu Giang trở thành thương hiệu dược số một thị trường nội địa và giành lại thị phần từ các hãng nước ngoài. Tự nhận mình là phụ nữ cứng rắn, quyết liệt, bà chia sẻ: khi bà quyết định nhập dây chuyền máy móc về sản xuất thuốc viên nang thì Dược Hậu Giang cũng là doanh nghiệp dược trong nước đầu tiên sản xuất được viên nang. Năm 2004, khi DHG đang phát triển thuận lợi, bà quyết tâm cổ phần hóa công ty dù chưa thuộc diện bắt buộc, để bà có thể chủ động hơn trong hoạch định cơ chế, chính sách đối với người lao động, khuyến khích tinh thần sáng tạo, cống hiến của cán bộ công nhân viên.

Đi lên từ kháng chiến nhưng bà đã điều hành doanh nghiệp vượt cả các doanh nhân giỏi thời bình. Kỹ năng lãnh đạo và quản trị doanh nghiệp của bà là nhờ liên tục bồi đắp và học hỏi. Nữ CEO chia sẻ cách thức điều hành nhân sự là dù làm công việc gì, cũng phải làm tới nơi tới chốn, theo tiêu chí đã muốn phải làm, đã làm phải thắng. Bản thân bà, mỗi buổi công tác với cộng sự, bà đều dành thời gian đào tạo họ vì tin rằng học qua công việc là cách hiệu quả nhất.

Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã sinh ra nhiều thương gia Việt Nam giàu có. Những doanh nhân này không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn vì lòng yêu nước.

Cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta chưa có lớp doanh nhân đúng nghĩa.

Cách mạng Tháng Tám đã mở ra một chân trời mới cho doanh nhân Việt Nam để phát triển trở thành một lực lượng dân tộc và tham gia vào công cuộc kiến quốc.

Không ít người hiến tặng cả cuộc đời và sản nghiệp cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Giai đoạn lịch sử đầu thế kỷ XX đã sinh ra nhiều thương gia Việt Nam giàu có. Những doanh nhân này không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn vì lòng yêu nước.

Họ biết gắn mục tiêu kinh doanh của mình với sự hưng vong của dân tộc. Họ luôn đề cao tinh thần và lòng tự hào dân tộc.

Bạch Thái Bưởi (1874-1932): tấm gương sáng, cổ vũ các thế hệ doanh nhân Việt vươn lên khẳng định mình

Trong lịch sử kinh tế nước nhà, cái tên Bạch Thái Bưởi có ý nghĩa vô cùng lớn. Cuộc đời, sự nghiệp của ông là một tấm gương sáng, cổ vũ các thế hệ doanh nhân Việt Nam vươn lên khẳng định mình. Với tinh thần dân tộc vô cùng mạnh mẽ “phải làm sao để ngọn cờ của công ty người Việt Nam ta phất phới trên năm châu bốn biển, để cả thế giới biết đến người Việt Nam và đất nước Việt Nam”, Bạch Thái Bưởi đã từ một người tay trắng trở thành một doanh nhân Việt Nam kiệt xuất trong những năm đầu thế kỷ XX.

Xuất thân từ một ký lục (nhân viên thư ký) cho hãng buôn của người Pháp ở phố Tràng Tiền, Hà Nội, năm 1894, ông chuyển sang làm cho một xưởng thuộc hãng thầu công chính, nơi lần đầu tiên ông được tiếp xúc, thu nhận những hiểu biết về máy móc, cách tổ chức, quản lý sản xuất.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi người Pháp bắt đầu công cuộc khai thác thuộc địa, mở mang đường sá, xây dựng cầu cống. Bạch Thái Bưởi tìm cơ hội trở thành đối tác cung cấp nguyên liệu cho dự án xây dựng tuyến đường sắt lớn nhất Đông Dương lúc bấy giờ, bắt đầu bằng việc xây cây cầu dài 3.500m nối Hà Nội với Gia Lâm.

Sau đó, ông bỏ vốn mua lại một hãng cầm đồ ở Nam Định, rồi mở hiệu cơm Tây ở Thanh Hóa, hãng rượu ở Thái Bình và làm cả cai thầu thuế chợ từ miền Bắc đến miền Trung.

Nghiệp kinh doanh lẫy lừng nhất cho Bạch Thái Bưởi bắt đầu vào năm 1909, khi ông thuê lại ba chiếc tàu của một doanh nghiệp Pháp và mở tuyến giao thông đường biển Nam Định-Hà Nội-Bến Thủy.

Tháng 4.1916, ông tuyên bố thành lập Giang hải luân thuyền Bạch Thái công ty, điều hành 17 tuyến đường thủy từ Hà Nội đến Tuyên Quang, vươn ra đến tận Hồng Kông, Nhật Bản, Philippines, Trung Quốc, Singapore...

Năm 1917, Hãng Deschwanden của Pháp bị phá sản, ông mua lại 6 chiếc tàu khác của hãng này. Ngày 7.9.1919, công ty của Bạch Thái Bưởi gây tiếng vang lớn khi cho hạ thủy tại Cửa Cấm (Hải Phòng) chiếc tàu Bình Chuẩn hoàn toàn do người Việt thiết kế, thi công. Cũng chính nhờ con tàu lớn đầu tiên của Việt Nam này mà Bạch Thái Bưởi được xưng tụng là “Vua tàu thủy Việt Nam."

Làm ăn với người Pháp, học tập kỹ thuật tân tiến của phương Tây, nhưng khi đặt tên các con tàu, ông đều lấy từ nguồn lịch sử của dân tộc như: Lạc Long, Trưng Trắc, Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Hàm Nghi…

Có lần lên tiếng bênh vực cho quyền lợi của người dân bị trị, trong Hội nghị Kinh tế lý tài, ông bị René Robin - Thống soái Bắc kỳ lúc đó - đe dọa: “Nơi nào có Robin thì không có Bạch Thái Bưởi,” ông đáp lại: “Nước này còn Bạch Thái Bưởi thì không còn Robin.”

Bạch Thái Bưởi được người đương thời và các thế hệ đi sau đánh giá là một nhà tư sản dân tộc, một doanh nhân giàu ý chí tự cường, một thương gia lớn, có tinh thần tự tôn dân tộc, một tâm hồn Việt…

Cũng vì thế mà ông trở thành khuôn mặt nổi tiếng của 30 năm đầu thế kỷ XX.

Ngô Tử Hạ (1882-1973): nhân sĩ yêu nước, thương dân

Trước cách mạng, nhà in nổi tiếng Ngô Tử Hạ là mạnh thường quân của các trí thức yêu nước muốn in ấn sách báo. Ngô Tử Hạ quê ở Quy Hậu, Kim Sơn, Ninh Bình, rời quê hương nghèo đói lên Hà Nội lập nghiệp, làm thợ cho nhà in IDEO của Pháp từ năm 17 tuổi.

Sau vài năm dành dụm, ông đã mua được máy in và mở cơ sở in của riêng mình. Sau đó, ông mua thêm nhiều máy in loại hiện đại, mở rộng phát triển ngành in và trở thành người nổi tiếng nhất Đông Dương trong lĩnh vực in ấn, là một trong 300 nhà tư sản giàu nhất Đông Dương thời đó.

Đầu năm 1945 ông tham gia Mặt trận Việt Minh. Các nhà in của ông trở thành cơ sở in sách báo, tài liệu tuyên truyền cổ động của Việt Minh,

Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngô Tử Hạ là chí sĩ yêu nước được bầu làm đại biểu Quốc hội, rồi Ủy viên Ban thường trực của Quốc hội khóa I và là đại biểu cao tuổi nhất.

Khi đó Ngô Tử Hạ là người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ đã hoạt động tích cực, tận tụy vào cuộc đấu tranh chống giặc đói của Nhà nước cách mạng, góp phần vào việc giữ nước trong những ngày đầu gian nan.

Năm 1960, gia đình cụ làm đơn xin hiến cho Chính phủ toàn bộ bất động sản mà gia đình đang sở hữu, chỉ giữ lại 200m2 để làm chỗ ở và nơi thờ tự.

Theo bản kê khai ngày 29.7.1960 về nhà đất hiến cho Nhà nước, gồm nhà 24-48 Lý Quốc Sư, nhà 2/12 Ngõ Huyện, biệt thự 60 Nguyễn Du, số nhà 8 Lý Quốc Sư, nhà số 4 ngõ 338 Thịnh Yên, nhà số 31 Hàng Bông.

Nguyễn Sơn Hà (1894-1980): ông tổ nghề sơn Việt có lòng yêu nước

Nguyễn Sơn Hà được biết đến như là người khai sinh nghề sản xuất sơn dầu ở Việt Nam và là một trong những doanh nhân hàng đầu của Việt Nam thời Pháp thuộc. Ông sinh ra tại huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây trong một gia đình có 7 anh chị em.

Gia đình doanh nhân Nguyễn Sơn Hà

Năm 1917, sau thời gian dài làm cho hãng sơn Pháp Sauvage Cottu, Nguyễn Sơn Hà trở thành chủ của một công ty nhỏ thầu các việc sơn vôi, kẻ biển và âm thầm chế tạo thử sơn dầu. Vài năm sau, Hãng sơn Gecko của ông đã chiếm lĩnh thị trường.

Năm 1939, trong một lần vào Nam, ông tới thăm cụ Phan Bội Châu đang bị Pháp quản thúc tại Huế. Cuộc gặp gỡ này đã tác động sâu sắc đến ông và sau đó đã tham gia tích cực các hoạt động của Hội Trí tri, Hội Ánh sáng, thành lập Ban Cứu tế, Chi hội Truyền Bá quốc ngữ.

Cụ Nguyễn Văn Tố đã thân hành về Hải Phòng đề nghị ông làm Hội trưởng Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng, Kiến An. Là nhà tư sản lớn và có uy tín, nên khi ông đứng ra làm Hội trưởng thì mọi tầng lớp nhân dân ở Hải Phòng, Kiến An ủng hộ rất mạnh.

Ông Nguyễn Sơn Hà là người có công rất lớn trong việc truyền bá quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo. Trong nạn đói Ất Dậu, ông đã liên lạc với bạn bè cùng chí hướng, thuyết phục những người giàu có lập Hội Cứu tế để giúp đỡ dân nghèo. Ông cũng đấu tranh với Pháp, Nhật đòi mở kho tấm cám để cứu đói.

Trong Tuần Lễ Vàng do Chính phủ phát động, ông tích cực đóng góp tiền vàng và vận động các nhà tư sản khác và nhân dân mọi tầng lớp tham gia. Gia đình ông trong lần ủng hộ đầu tiên đã hiến tặng toàn bộ số nữ trang của gia đình, gồm vàng bạc, đá quý cân được 10,5 kg.

Vào những ngày đầu của “Toàn quốc kháng chiến”, ông cùng với các doanh nhân như Bùi Hưng Gia, Ngô Tử Hạ... đã tình nguyện hiến tài sản cho cách mạng.

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Nguyễn Sơn Hà đã cùng người em rể dùng tiền của ông ở đại lý sơn tại Sài Gòn tổ chức một đoàn tàu vượt biển ra Côn Đảo đón tù chính trị bị giam giữ trở về đất liền trước khi Pháp nổ súng gây hấn vào 23.9.1945.

Ông Nguyễn Sơn Hà là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên và tham gia cách mạng khi kháng chiến bùng nổ. Ông là người đã giúp bộ đội làm vải nhựa cách điện, sản xuất giấy than, mực in lito, vải che mưa, chế tạo được lương khô và thuốc ho…

Sau kháng chiến chống Pháp, ông trở về Hà Nội và tiếp tục trúng cử vào Quốc hội Việt Nam khoá khoá II, III, IV, V.

Đỗ Đình Thiện (1904-1972): người tư sản thành thư ký cho Chủ tịch Hồ Chí Minh

Ông Đỗ Đình Thiện sinh năm 1904 tại làng Noi (nay thuộc Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội), có bố là thư ký cho một chủ đồn điền Pháp nhưng mất sớm. Ông Thiện được mẹ nuôi dưỡng cho học chữ Nho và chữ Quốc ngữ rồi sang Pháp du học.

Tại Pháp ông học trường Đại học Canh Nông (Toulouse), vừa học vừa tham gia hoạt động cách mạng, rồi vào Đảng Cộng sản Pháp năm 1928. Ông bị cảnh sát Pháp bắt giữ khi trao truyền đơn cách mạng cho những binh sỹ người Việt Nam đang trên đường hồi hương, bị kết án 4 tháng tù và bị trục xuất về nước.

Khi về nước ông vẫn tiếp tục bị kiểm soát gắt gao, không thể trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông chuyển sang làm kinh tế, mở hiệu buôn bán tơ lụa rồi dựng nhà máy, lập đồn điền… để khi có điều kiện sẽ ủng hộ cách mạng, giúp đỡ các đồng chí mình hoạt động.

Năm 1946, trước khó khăn của Đảng không có nhà in riêng để in tiền, ông mua lại nhà in của Pháp và hiến cho Chính phủ để lập nhà in tiền. Tháng 3.1946, nhà máy in tiền Tôpanh được chuyển về đồn điền Chi Nê (Lạc Thủy, Hòa Bình) của gia đình ông.

Ông được cử phụ trách Quỹ Độc lập Trung ương ở Hà Nội, đóng góp nhiều tiền, vàng cho chính quyền cách mạng. Không những vậy, ông còn mua đấu giá bức tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh do họa sỹ Nguyễn Sáng vẽ với giá một triệu đồng Đông Dương (khoảng gần 2.000 lạng vàng), sau đó tặng cho Ủy ban kháng chiến hành chính Thành phố Hà Nội.

Việc làm này của ông được đánh giá là để nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời để tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng.

Lúc mới giành được chính quyền, Nhà nước chưa có bộ phận lễ tân chuyên trách do vậy việc tiếp các vị khách đặc biệt được giao cho một số gia đình có điều kiện ở Hà Nội. Ngôi nhà ở 54 Hàng Gai của gia đình ông bà Thiện trở thành "nhà khách" của Chính phủ.

Đồn điền Chi Nê không những trở thành nơi dưỡng quân cho các đơn vị trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, điểm dừng chân của nhiều lãnh đạo Đảng. Từ cuối năm 1945 đầu năm 1946, nơi đây còn là cơ sở cung cấp lương thực, thực phẩm, trú quân cho các đơn vị lực lượng vũ trang Chiến khu 2.

Trong chuyến đi Pháp năm 1946, ông còn trở thành thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1947, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình gồm mẹ già và 4 con nhỏ lên Việt Bắc theo cuộc kháng chiến 9 năm.

Ông bà đã giao lại đồn điền Chi Nê cho Ban Kinh tài của Đảng quản lý, đồng thời đóng góp gần nửa cổ phần để xây dựng Việt Nam công thương Ngân hàng (tiền thân của Ngân hàng quốc gia Việt Nam).

Trịnh Văn Bô (1914-1988): hiến gia tài cho cách mạng

Ông Trịnh Văn Bô là con út trong gia đình 3 anh chị em, cha là cụ Trịnh Phúc Lợi, một doanh nhân Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Năm 1932, ông lập gia đình với bà Hoàng Thị Minh Hồ, con gái của cụ Hoàng Đạo Phương, một nhà nho và cũng là thương gia giàu có. Bà Minh Hồ đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp kinh doanh của chồng.

Ông Trịnh Văn Bô cùng vợ đặt cửa hiệu buôn vải sợi Phúc Lợi tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Tầng hai của hiệu buôn sầm uất này từng là nơi ở của nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng cấp cao của Việt Nam khi chuyển hoạt động từ chiến khu về Hà Nội, trong đó có cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính nơi đây, Bác đã khởi thảo và hoàn thành bản Tuyên Ngôn độc lập.

Thời điểm 1940, ông Trịnh Văn Bô được xem là một trong những người giàu có bậc nhất đất Hà Thành, giao thương với cả các bạn hàng ở Đông Dương, sở hữu một nhà máy dệt và kinh doanh bất động sản.

Trong "Tuần lễ vàng," gia đình ông đã ủng hộ tới 5.147 lượng vàng, tương đương 2 triệu đồng Đông Dương cho Chính phủ. Không những thế, vợ chồng ông Trịnh Văn Bô còn là thành viên cốt cán trong Ban vận động "Tuần lễ vàng."

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Trịnh Văn Bô, mừng đại thọ 100 tuổi của cụ bà Hoàng Thị Minh Hồ (1914-2014), Bộ Tài chính biên soạn cuốn sách “Doanh nhân Trịnh Văn Bô và những cống hiến cho nền tài chính cách mạng Việt Nam” nhằm vinh danh những công lao, đóng góp của gia đình ông, đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.